Người tiêu dùng: Từ sự coi thường đến “Khách hàng là Thượng đế”
|Trong tác phẩm “The Wealth of Nations” xuất bản năm 1776, nhà kinh tế học Adam Smith đã nói: “Tiêu dùng là đích đến cuối cùng và là mục tiêu chính của mọi ngành sản xuất.”
Mặc dù vậy, chủ đề tiêu dùng hiếm khi được chú trọng trong cả tác phẩm này cũng như nhiều nghiên cứu khác của Smith. Bản thân ông cùng những học trò sau đó đều không coi sự tiêu dùng là một nhánh quan trọng của kinh tế học.
Thậm chí trong tác phẩm trước đó là “The Theory of Moral Sentiments” xuất bản năm 1759, Smith cũng chỉ nhìn nhận sự tiêu dùng trên phương diện tâm lý học như một “sự tiện nghi nhỏ nhặt”.
Quan điểm của Smith không có gì là lạ khi những tư duy tiêu cực về tiêu dùng đã tồn tại từ thời kỳ cổ đại và khó lòng xóa nhòa trong tâm trí các nhà kinh tế học thời đó.
Khi “tiêu dùng” không được coi trọng trong kinh tế học
Từ “sự tiêu dùng” (Consumption) có tiếng gốc latin là “Consumer” và lần đầu tiên du nhập vào Pháp từ thế kỷ 12 rồi dần được truyền sang tiếng Anh và các ngôn ngữ Châu Âu khác. Nguyên nghĩa của từ này là “sử dụng hết thức ăn hay những nguồn tài nguyên khác”
Hầu hết các quốc gia Châu Âu và cả thuộc địa Mỹ trong khoảng thế kỷ 14-18 đều ban hành những quy định về tiêu dùng nhằm hạn chế làn sóng chuộng hàng hiệu, hàng xa xỉ.
Đối với những vị vua chúa, việc chi trả cho những loại hàng hóa nhập từ phương xa, như vải bông từ phương Đông xa xôi được coi là một loại thiệt hại cho ngân khố và nhà nước. Thời này, những nhà sản xuất và đất đai được họ sở hữu là thước đo của quyền lực cũng như đức hạnh trong khi những người tiêu dùng là những kẻ làm thất thoát tài sản.
Đến thế kỷ 18, nhiều nhìn nhận tích cực hơn về tiêu dùng đã xuất hiện. Tuy nhiên, cuộc cách mạng Pháp và những biến động chính trị đã làm đảo lộn mọi thứ. Cả phe cấp tiến lẫn bảo thủ đều cho rằng chính sự xa hoa đã bào mòn đức hạnh và sự bền vững của xã hội.
Các nhà kinh tế học thời kỳ này đã không tưởng tượng ra được một nền kinh tế sẽ tăng trưởng thế nào nếu giữ mức tiêu dùng cao, hậu quả là sự tiêu dùng được ví như sự phá hoại nguồn tài nguyên mãi đến thế kỷ 19.
Lời minh oan cho những khách hàng chuộng mua sắm
Năm 1871, nhà kinh tế học người Anh William Stanley Jevons mới đánh giá nghiêm túc vai trò của tiêu dùng trong nền kinh tế với tác phẩm “Lý thuyết kinh tế chính trị” (Theory of Political Economy). Theo Jevons, chính người tiêu dùng mới là yếu tố xác định giá trị của hàng hóa chứ không phải nhà sản xuất và nhiều khi, cầu mới là yếu tố tạo nên cung.
Trên thực tế, sự bùng nổ của công nghệ máy hơi nước, bành trướng thuộc địa của các đế quốc khiến quá trình toàn cầu hóa được đẩy mạnh. Nhiều công nhân và tầng lớp thấp được hưởng lợi từ quần áo, thực phẩm rẻ cũng như đa dạng hơn. Hệ quả là sự chú ý của xã hội chuyển từ tiết kiệm nguồn tài nguyên, hạn chế tiêu dùng sang thúc đẩy chi tiêu và nâng cao tiêu chuẩn sống.
Bên cạnh đó, chính người dân cũng ngày càng phát triển vai trò của chính người tiêu dùng trong xã hội. Những khu phố mua sắm như Bon Marche ở Paris hay Selfridges ở London đã giúp nâng cao tiếng nói của người tiêu dùng và tạo nên môi trường mới cho những người mua sắm, đặc biệt là phái nữ.
“Thượng đế” lên ngôi
Những hội tiêu dùng với biểu tượng người phụ nữ xách giỏ đã đem lại tiếng nói mới cho phái yếu khi họ là thành phần mua sắm chính trong xã hội. Nhiều hiệp hội tiêu dùng ở New York, Paris, Rome, Berlin đã vận động chống lại việc sử dụng nô lệ da đen để sản xuất hàng hóa, họ công kích những nhà máy có điều kiện làm việc tồi tàn, lương thấp và trích quỹ thưởng cho những công ty đối xử tốt với người lao động.
Trong thời kỳ này, người tiêu dùng được coi là sự trung gian điều chỉnh mối quan hệ chủ tớ. Nếu những khách hàng đều ích kỉ, vô lương tâm và tham lam thì hàng ngàn người lao động sẽ phải sống trong khổ sở. Thậm chí, trong các cuộc vận động tranh cử hay mít tinh chính trị, hàng triệu người tiêu dùng được tập hợp để bảo vệ lợi ích cho cộng đồng cũng như bỏ phiếu cho các ứng viên.
Vào năm 1962, Tổng thống Mỹ John F.Kennedy đã ban hành Bộ luật về quyền lợi người tiêu dùng, qua đó đánh dấu vị thế cũng như phúc lợi của việc bảo vệ người tiêu dùng trong xã hội. Thậm chí người tiêu dùng giờ đây đã chủ động tạo nên được những mảng văn hóa mới, những sản phẩm mới cho chính họ mà không phụ thuộc vào ý muốn của các nhà sản xuất nữa.
Theo BrandsVietNam